Bạo lực gia đình và một số quy định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình đã và đang là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu
quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em, làm hạn chế sự
tham gia của họ vào đời sống cộng đồng, không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm
lý cho các thành viên trong gia đình mà còn vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực
trong việc thực hiện công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Sự ra đời của Luật
Bình đẳng giới năm 2006, Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014, Luật trẻ em năm 2016 là những cơ sở pháp lý quan trọng
để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình, nhất là người cao
tuổi, phụ nữ và trẻ em rất dễ trở thành đối tượng, nạn nhân của bạo lực
gia đình. Những văn bản Luật này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời
sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
Ngày nay, khi chúng ta đang chung tay xây dựng xã hội văn
minh hiện đại, gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thì đâu đó tình trạng bạo lực
gia đình vẫn còn tồn tại và diễn ra phức tạp dưới nhiều hình thức. Vì vậy cộng
đồng và mỗi công dân cần phải đấu tranh để hạn chế và từng bước ngăn chặn, xóa
bạo lực gia đình trong đời sống xã hội.
Bạo lực giữa người
chồng đối với người vợ trong gia đình có thể thấy là dạng bạo lực phổ biến nhất
giữa các thành viên trong gia đình. Hành vi người chồng gây ra chủ yếu và lớn
nhất là bạo lực về thể chất, đây là dạng dễ nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ
nhất. Sở dĩ đa phần người đàn ông sử dụng nắm đấm để dạy vợ là do họ không
nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không
phải tất cả hành vi bạo lực của người chồng đều là bạo lực về thể chất mà có
những lúc, họ dùng tới nhiều cách khác để gây ra những tổn thương về tâm lý cho
người vợ: mắng mỏ, chửi bới, xúc phạm danh dự; hoặc có những hành vi cưỡng bức
về tình dục, kiểm soát về kinh tế... Ngược lại trong xã hội ngày nay, hiện
tượng người vợ sử dụng bạo lực đối với chồng cũng không phải là hiếm. Không chỉ
dừng lại ở những lời lẽ chửi bới, những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp
gây ra những tổn thương về thể chất hoặc tính mạng của người chồng. Tóm lại, bạo lực gia
đình xuất phát từ cả hai phía vợ và chồng đang ngày càng phát triển và gây nhức
nhối trong xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các thành viên khác trong gia
đình, đặc biệt là trẻ em. Nguyên nhân của hiện tượng này rất nhiều, ngoài vấn
đề tâm lý còn phải kể đến vấn đề đạo đức, kiến thức giải quyết mâu thuẫn gia
đình.
Bạo lực gia đình giữa
các thành viên khác trong gia đình với nhau cũng đã tồn tại từ lâu nhưng chiếm
tỷ lệ không lớn, vì mức độ phụ thuộc giữa các thành viên này không cao như giữa
vợ chồng hay cha mẹ với con. Nạn nhân chủ yếu của loại bạo lực này là phụ nữ và
trẻ em khi mà các thành viên này muốn tham gia vào sự giáo dục những người
làm dâu, làm con trong gia đình. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong gia đình không
tìm được cách giải quyết cũng dẫn tới nạn bạo lực giữa các thành viên khác: anh
em, chú cháu đánh nhau vì xích mích, mâu thuẫn trong cuộc sống, vì tranh chấp
tài sản, chị em mắng chửi, nói xấu nhau.
Bạo lực được hiểu là
dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ. Khái niệm này dễ làm người ta
liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên thực tế, bạo lực được coi
như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ
xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú được
chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn
thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, trẻ em. Bạo lực gia đình là
một dạng thức của bạo lực xã hội, là: “hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần,
kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình 2007). Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu
nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực
xã hội với nhiều dạng thức khác nhau.
* Có thể nhận diện bạo
lực gia đình ở những hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: Là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương tới sức
khỏe, tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh
thần: Là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm,
tâm lý của thành viên gia đình.
- Bạo lực về kinh tế: Là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền
sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…).
- Bạo lực về
tình dục: Là tất cả các hành vi mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình
dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con. Bạo lực về tình
dục là vấn đề khá tế nhị, người ta thường hay giấu nhưng nó xảy ra khá nhiều và
gây hậu quả làm đổ vỡ gia đình.
* Đối tượng bạo lực và
bị bạo lực: Bạo lực giữa vợ,
chồng với nhau; bạo lực giữa cha mẹ và con cái; bạo lực giữa các thành viên
khác trong gia đình.
* Mỗi hình thức bạo
lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình 2007 đã quy định các hành vi bạo lực bao gồm:
- Hành hạ, ngược đãi,
đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà
và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ;
- Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên
gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng
phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
*Nguyên tắc phòng,
chống bạo lực gia đình: Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007, nguyên tắc phòng, chống
bạo lực gia đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng,
chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn
hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”.
*Quyền, nghĩa vụ của
nạn nhân bạo lực gia đình: Được quy định cụ thể tại Điều 5 Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, bao gồm:
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng,
nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình.
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ,
cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này.
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác
theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên quan đến bạo
lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu.
Nạn nhân bạo lực gia
đình, những người bị chính người thân của mình gây ra những tổn thương nhất
định, rất cần được sự giúp đỡ của cộng đồng và xã hội. Khi hành vi bạo lực đã
xảy ra trong gia đình thì những thành viên gia đình vì những mối quan hệ với
người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát
cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân cần sự giúp đỡ của các cơ quan,
tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ, sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Việc quy định đây là quyền của nạn nhân, tức là
nghĩa vụ của các chủ thể khác phải thực hiện là hoàn toàn đúng đắn.
Bên cạnh đó, rất nhiều
trường hợp, nạn nhân bạo lực gia đình cần sự giúp đỡ về y tế, tư vấn tâm lý,
pháp luật. Những tổn thương về thể chất có thể chữa lành bằng sự chăm sóc y tế,
nhưng với tổn thương về tâm lý, nạn nhân không dễ dàng vượt qua được. Những sợ
hãi, hoang mang, khủng hoảng có thể theo họ một thời gian dài, khiến họ
không lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống. Họ rất cần được tư vấn tâm lý để
vượt qua những nỗi ám ảnh này, họ cần được biết rằng họ không có lỗi trong việc
để hành vi bạo lực gia đình xảy ra, được hướng dẫn phải xử sự như thế nào khi
những hành vi này tiếp diễn. Đặc biệt, họ cần biết những quy định của pháp luật
về vấn đề này để nâng cao khả năng tự bảo vệ trong những trường hợp tương tự.
Ngoài ra, nạn nhân
cũng cần có một nơi để tạm lánh để có thời gian cách ly nhất định với người
thực hiện hành vi bạo lực. Điều này có tác dụng làm cho cả hai bên có thời
gian, cơ hội để nhìn nhận sự việc một rõ ràng hơn, bình tĩnh hơn. Với những kẻ
thực hiện hành vi bạo lực một cách côn đồ, hung hãn, không có điểm dừng thì nơi
tạm lánh này là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ nạn nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh
những quyền lợi như vậy, nạn nhân bạo lực gia đình cũng phải thực hiện nghĩa vụ
nhất định, đó là: cung cấp thông tin liên quan đến bạo lực gia đình cho cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu cầu. Do tính chất nhạy cảm
của tội phạm, cũng như mối quan hệ đặc biệt của các chủ thể, pháp luật không
đặt ra nghĩa vụ của nạn nhân trong việc phòng chống bạo lực gia đình hay tố
giác người có hành vi bạo lực điều này hoàn toàn hợp lý. Vậy tại sao lại
quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của nạn nhân? Bởi vì bạo lực dù diễn ra
trong gia đình nhưng lại ảnh hưởng tới sự phát triển chung của toàn xã hội, do
đó cần phải được xử lý kịp thời; nạn nhân cả bạo lực cần được bảo vệ, nhưng họ
cũng cần tự bảo vệ mình trong giới hạn nhất định, và đó có thể coi là trách nhiệm
của họ với cộng đồng, xã hội.
*Nghĩa vụ của người có
hành vi bạo lực gia đình: Người có hành vi bạo lực gia đình là người đã gây ra
những tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình.
Tại Điều 4 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định rõ nghĩa vụ của họ,
bao gồm:
1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo
lực.
2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia
đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu cầu và theo
quy định của pháp luật.
Trước hết, khi thực
hiện hành vi bạo lực và bị phát hiện, người có hành vi bạo lực gia đình phải
tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay hành vi bạo lực.
Tôn trọng sự can thiệp có nghĩa là người có hành vi bạo lực gia đình phải lắng
nghe, thực hiện theo những yêu cầu chính đáng của cộng đồng, không được có thái
độ hung hãn, chống đối hay có ý định trả thù sự can thiệp đó. Quy định này
tưởng chừng như chung chung nhưng lại rất cụ thể và sâu sắc. Người có hành vi
bạo lực gia đình không chỉ thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của cộng đồng mà còn
phải tôn trọng sự can thiệp đó, nghĩa là bản thân họ phần nào nhận biết được
tính đúng đắn của việc can thiệp, cũng như phải có thái độ đúng mực với những
người can thiệp.
Chấp hành quyết định
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng là nghĩa vụ của người có hành vi bạo
lực. Trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình, những chủ thể có thẩm quyền
có thể đưa ra những chế tài như: góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư, áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, việc bị xử lý hành vi bạo lực
gia đình vốn không quen thuộc với người Việt, vì rất nhiều nghĩ đó là quyền của
họ. Do đó, quy định người có hành vi bạo lực có nghĩa vụ chấp hành quyết định
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là cần thiết để tạo ra cơ sở pháp lý mạnh
mẽ, buộc chủ thể phải thực hiện, bảo đảm hiệu quả của công tác phòng, chống bạo
lực gia đình.
Với những trường hợp
nạn nhân bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cần tới sự can thiệp của y
tế thì người thực hiện hành vi bạo lực phải kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu,
điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
Đây tưởng chừng như điều hiển nhiên, là ứng xử bắt buộc của các thành viên gia
đình đối với nhau, nhưng lại là điều rất khó thực hiện khi một bên là chủ thể,
một bên là nạn nhân của hành vi bạo lực. Người có hành vi bạo lực khi đã nhẫn
tâm ra tay thì rất khó có chuyện thương xót, lo lắng cho nạn nhân mà đưa họ đi
chữa trị, chăm sóc; hoặc có khi họ nhận thấy sai lầm của mình nhưng do sợ bị
phát hiện, sợ phải gánh trách nhiệm nên không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa
trị.
*Xử lý vi phạm pháp
luật về Phòng, chống bạo lực gia đình:
Điều 42 Luật Phòng
chống bạo lực gia đình quy định về xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình như sau:
1. Người có hành vi vi
phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức,
viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình
nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông
báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó
để giáo dục.
3. Chính phủ quy định
cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về phòng, chống bạo lực gia đình, hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với người có hành vi vi phạm pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Như vậy, người có hành
vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình có thể bị xử lý bằng các
biện pháp khác nhau, cụ thể: Xử lý kỷ luật, Xử lý hành chính; Xử lý theo pháp
luật dân sự; Xử lý theo pháp luật hình sự./.